Trong "T.ỌC" (Trung tâm hành quân) tù mù, Đại úy Quí trình diện "xếp" và giới thiệu từng người trong bọn tôị Tướng Hưng mặc áo thun xanh và có nụ cười hiền từ, ông bắt tay mọi người và khất đến sau phiên họp hành quân sẽ để chúng tôi phỏng vấn. Căn hầm của Tướng Hưng rất hẹp so với số người chen chúc làm việc trong đó, kích thước chỉ chừng 4x10 m, tất cả bộ tham mưu của ông làm việc dưới này và không 1 ai có quân phục đàng hoàng, không áo thun thì cũng mình trần. Vào buổi chiều Tướng Hưng ra khỏi hầm để anh em chúng tôi thực hiện 1 "show" dã chiến. Chúng tôi nhận rõ khuôn mặt gầy gò rất có nét của ông. Điểm đặc biệt là làn da ông trắng xanh sau hơn 2 tháng làm việc dưới hầm, tránh các trận địa pháo kinh hoàng của Cộng quân mà có lúc đã lên tới khoảng 7,500 trái trong 1 ngàỵ Trong cuộc phỏng vấn, Tướng Hưng thay vì nói về mình đã chỉ đặc biệt đề cao tinh thần chiến đấu của tất cả các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của cả chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Tướng Hưng ca ngợi tất cả các lực lượng chiến đấu không riêng gì sư đoàn 5, lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân dưới sự điều khiển của Đại tá Nhật, tiểu khu trưởng Bình Long, anh em lữ đoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền Đại tá Lê Quang Lưỡng, các chiến hữu liên đoàn 81 Biệt Cách Dù thuộc quyền Trung tá Huấn (sau này là Đại tá), anh em Biệt Động Quân và 1 số lực lượng tăng phái thuộc các sư đoàn 21, 9 và 18. Sau cuộc phỏng vấn, Đại úy Quí đi lãnh mấy chục túi gạo sấy và thịt "menu à la carte" của An Lộc. Cùng lúc này chúng tôi gặp lại tất cả các anh em phóng viên chiến trường đi lẻ tẻ vào An Lộc. Nhóm này gồm có Cầu, Mỹ Voi, Hoàng và Lộc thuộc điện ảnh truyền hình quân độị Hoàng bị thương "sứt mũi" nên ngày chiều 13/6/72 đã theo 1 trực thăng tản thương về Lai Khệ Dỗ Văn Mỹ tục danh Mỹ Voi vì anh to và khoẻ như voị Mỹ Voi được tất cả anh em quí mến vì hắn luôn luôn coi trọng bạn bè hơn bản thân. Hắn thường xuyên lo lắn cho anh em từ chiếc chiếu ngủ đến cả bữa cơm gạo sấy thịt hộp. Trong chuyến "phiêu lưu" vào An Lộc, Mỹ Voi gặp nhiều may mắn đã tìm được thi hài đồng nghiệp Nguyễn Ngọc Bình, tự tay hốt cốt bạn gởi về Saigon. Điện ảnh viên Nguyễn Ngọc Bình bị nổ phi cơ hôm 1/5/72 trên đường vào An Lộc; 11 người trên chiếc trực thăng này đều thiệt mạng. Ngày 11/6/72, Mỹ Voi theo chân trung đoàn 15 hành quân trực thăng vận vùng Tân Khai và từ đó anh đã đi bộ 15 km đường rừng để vào An Lộc. Trên đường hành quân, Mỹ Voi bắt gặp xác chiếc trực thăng bị bắn hạ và di thể 11 người trên phi cơ, hắn nhìn được xác Nguyễ Ngọc Bình đã rữa nát nhờ chiếc máy quay phim và các "reel" phim trên ngực. Tất cả 11 di thể những người chết không một ai còn thẻ bài và Mỹ Voi tin chắc là đã tìm được xác Bình nhờ 1 mớ tóc bạc trên xương sọ. Mỹ Voi đã xin 2 thùng đạn "moọc chê" để hốt cốt Bình và năn nỉ Trung tá Trung đoàn trưởng 15 giúp gởi trực thăng tản thương về Saigon. Sau này khi nhận cốt chồng, quả phụ Nguyễn Ngọc Bình xác nhận đó là những phần còn lại của Bình nhờ 1 vết riêng ở răng của anh.
Kéo dài với những tháng ngày phong tỏa, chiến binh tử thủ An Lộc và số đồng bào còn kẹt trong vùng lửa đạn nhiều khi đã chia xẻ với nhau tất cả những thứ gì có thể ăn, để mà tiếp tục sống. 1 túi cơm sấy cũng phải chia làm nhiều phần để cùng nhau tiếp tục...chờ pháo kích và chiến đấụ Có những khoảng thời gian người "tử thủ" trông mong những cánh dù tiếp tế như những chứng tích duy nhất cho sự liên lạc giữa hậu phương và mặt trận. "Hàng" đến, có khi là 1 bao gạo, 1 con heo quay, 1 thùng thuốc lá, mấy chục ký bánh mì hay có khi là những thùng đạn khẩn thiết cho sự đứng vững của thị trấn nàỵ
Thực phẩm tươi và rau cỏ hầu như không được tìm thấy tại An Lộc trong suốt 2 tháng trời tử thủ ban đầụ Lúc đầu người ta còn chia xẻ với nhau 1 số thịt tươi của 1 vài trại gà, mấy con bò bị đạn pháo kích chết. Nhưng tất cả nguồn cung cấp này chỉ có thể kéo dài trong 2 tuần lễ là nhiềụ Những ruộng rau muống ở một vài khu vực trong thành phố khô cằn vì các cơn nắng cháy Bình Long, mùa mưa khởi sự vào đầu tháng 5 đem đến 1 chút sinh khí cho thành phố này trong những ngày tử thủ thứ 40 trở đị Nước mưa làm rau muống đâm chồi trên các vũng lầy ở quanh thành phố. Nhưng rau muống cũng là 1 trong các đầu mối bắt nguồn cho sự bi thảm. Ở An Lộc chết có đủ kiểu, đủ cách và tử thần rình rập ở mọi khoảng không gian lẫn thời gian. Có những người đã chết khi đi hái rau, người ta đã hái rau từ những ao đầy xác người chết vì chiến trận. Xác quân CSBV tùng thiết (bộ binh theo bảo vệ chiến xa), xác thường dân chết vì pháo kích và xác chiến binh VNCH tử thủ đã ngã gục cho sự đứng vững của An Lộc. Ao rau muốn Ấp Thánh Mẫu là 1 điển hình; rau mọc kín tới bờ ao, lẫn lộn với xác người đã sình thối, cũng chỉ đủ cung cấp cho binh sĩ trong vài ngày là đã cạn nguồn. Đêm 13/6/72, chúng tôi ngủ nhờ hầm Tướng Hưng. Đây là 1 căn hầm khác có lối đi thông qua hầm trung tâm hành quân. Tướng Hưng ít khi nào ngủ tại hầm riêng; ông hầu như làm việc 20 giờ 1 ngày với các bản đồ hành quân và một dọc máy truyền tin chằng chịt. Ông "lên máy" hầu như vào mọi lúc. Ông liên lạc với từ cấp trung đội trưởng trở lên để biết rõ tình hình và từng vị trí một, nhất là những khi có chiến xa CSBV xuất hiện trong thành phố. Đôi lúc ông tướng này thiếp đi ngay trên bàn làm việc, nếu không, ghế bố tại TOC sẽ là nơi ông chợp mắt trong khoảng vài tiếng đồng hồ 1 ngàỵ Cả 1 ngày mệt mỏi với những giây phút căng thẳng chạy đua với thần chết, đêm xuống tất cả chúng tôi ngủ mê man bỏ quên mọi chuyện, quên những tiếng đạn nổ từng chập và đàn muỗi đói vo ve như sáo thổi dưới căn hầm hỏa lò. Đã từng được nghe nói trước khi vào An Lộc, thức giấc lúc 7 giờ sáng, chúng tôi hỏi Đại úy Quí, "Ở đây không có đánh răng rửa mặt gì hết, phải không ?." Ông trả lời 1 cách ỡm ờ: "Chắc vậỵ" Ấy thế mà 2 ông Dương Phục, Anh Thuần vẫn xin đâu được 1 ca nước nhỏ thường thì chưa đủ cho 1 người súc miệng, 3 chúng tôi rửa mặt chung bằng số lượng nước quí giá nàỵ Mấy người lính tử thủ nói với chúng tôi: "Bây giờ là thần tiên rồị Hồi tháng 4, tháng 5 nước uống khiếm không ra, nói chi cái công tác vệ sinh cá nhân xa xỉ." Nguồn cung cấp nước ở An Lộc là mấy cái giếng ở khu phố chợ và con suối ở ngoại ô thành phố. Lính tử thủ hàng ngày xách các can xăng đi tìm nước cho mình và cho đồng độị Có lần 1 sĩ quan tham mưu của Tướng Hưng chết trong khi đi tìm đường suối tắm, Tướng Hưng đã "cạo" mấy ông sĩ quan thuộc Bộ Tư lịnh suốt ngày :"Ai cho mấy ông di tắm, không tắm đâu có chết, mấy chục ngày rồi tôi có tắm lần nào đâu, đâu có sao". 14/6/72, 1 ngày tử thủ mới lại bắt đầụ Sự yên lặng kỳ lạ của 1 thành phố chết vây kín khoảng không gian nhỏ bé đã khiến cả vạn con người uổng tử. Sự yên tĩnh thê lương không kéo dài lâu, chúng tôi đang đứng ở phòng khách trống mái của Tướng Hưng, mấy người lính đang "chế" cơm chiên Dương Châu bằng gạo sấy và thịt hộp. Những tiếng xé gió vụt ngang và những tiếng nổ ầm ầm liên tiếp. Không còn ai ở ngoài, trong khoảnh khắc mọi người biến hết vào trong các hầm chìm hầm nổị Dứt 1 loạt tiếng nổ, chúng tôi theo chân mấy anh em sư đoàn 5 ra khỏi hầm; họ cười nói huyên thuyên chẳng màng gì tới đợt pháo vừa nổ, có lẽ sự chịu đựng lâu ngày tạo cho họ thêm nhiều thói quen mớị Tôi hỏi người lính đang luôn tay đảo cơm trong cái chảo gang :
Người lính trả lời nhưng mắt vẫn không rời chảo cơm thơm phức. Câu chuyện chưa dứt, Đại úy Quí xuất hiện với nón sắt áo giáo nhưng cởi trần, 2 tay ông truyền nhau 1 vật gì trông không rõ. Ông nói: "Miểng văng tới tận đây còn nóng hổi, các anh coi".
Sau đợt pháo chào buổi sáng của quân CSBV, chúng tôi sửa soạn xuống phố chợ để thăm 2 đơn vị anh hùng trung đoàn 8 BB và liên đoàn 81 Biệt Cách Dù. Quí dặn dò: "Áo giáp nón sắt, ba lô để lại để chạy pháo cho lẹ." Anh em chúng tôi băng qua mấy dãy nhà đổ nát, bắt đầu vào con dường đất đỏ Hàm Nghi, đã trông thấy khu phố chợ, cũng vẫn là 1 cảnh hoang tàn đổ nát. Y viện An Lộc đây rồi, không ai còn có thể nhận ra nơi đây đã từng là 1 bệnh viện nếu không có tấm bảng lỗ chỗ vết đạn treo lủng lẳng từ trên 1 đầu trụ xi măng có hàng chữ "Phòng nhận bệnh.." Anh em tử thủ kể lại cho chúng tôi rằng trong những ngày máu lửa của Bình Long có đến 600 người đã chết tại bệnh viện này, kể cả thương binh, đồng bào bị thương đang được chữa trị cũng như những người lánh nạn tìm sự an toàn ở dấu hiệu quốc tế hồng thập tự. Cộng quân pháo kich dã man vào khu nhà thờ và nhà thương với mục đích rõ rệt, giết hại thật nhiều người để An Lộc hỗn loạn, binh sĩ mất tinh thần hầu chúng có thể dứt điểm An Lộc một cách mau chóng. Bộ chỉ huy trung doàn 8 BB đặt tại 1 trong các cao ốc đang xây dở trên đại lộ Hoàng Hôn hay đường Trần Hưng Đạo cũng vậy, chúng tôi đến thăm nơi này giữa lúc Đại tá Mạch Văn Trường đang gắn lon Đại úy đặc cách mặt trận cho Trung úy Đào Lâm Tòng, 1 đại dội trưởng xuất sắc của tiểu đoàn 3/8. Trung úy Tòng sáng 14/6/72 đã giải tỏa đồi 100 phía Đông Bắc An Lộc và cắm hiệy kỳ tiểu đoàn 3/8 trên đồi nàỵ Ngày 13/6, Biệt Cách Dù giải tỏa đồi Đồng Long ở vòng đai Bắc An Lộc và lá quốc kỳ VNCH phất phới tung bay trong nắng sớm sau 68 ngày Cộng quân chiếm cứ cao điểm 148 m nàỵ Cũng vào ngày 13/6 các chiến sĩ Biệt Động Quân gan dạ đã giải tỏa sân bay L.19 ở Tây Bắc An Lộc. Những chiến tích này khiến cho tất cả địch quân bị đẩy lui ra xa thành phố An Lộc và là 1 khởi điểm vàng son cho sự đứng vững của thành phố nàỵ Đại tá Mạch Văn Trường, Trung đoàn trưởng trung đoàn 8 (sau này là Tư lệnh phó sư đoàn 5 BB) và Thiếu tá Hoàng Trung Liêm, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 52 pháo binh đã tiếp đón chúng tôi thật ân cần; họ xúc động vì sự có mặt của chúng tôi tại An Lộc. Đại tá Trường và Thiếu tá Liêm hướng dẫn chúng tôi đi quanh khu vực Bộ chỉ huy trung đoàn, từ 4 con đường xung quanh rải rác 15 chiếc T54 và PT76, cái thì đứt xích, lật nghiêng, cái thì văng cả pháo tháp nằm ngang ngửa trên mặt lộ. Duy có 1 điểm giống nhau, tất cả cùng nám đen và bắt đầu hoen rỉ. Lâu ngày chưa có ai để tâm sự, Đại tá Trường miên man kể chuyện chiến trận cam go từ khi trung đoàn được trực thăng vận vào An Lộc ngày 11/4/72 và chịu đựng 4 trận tấn công biển người với chiến xa yểm trợ. Đại tá Trường "thú thật" cả đời đánh giặc chưa khi nào dự trận nào khủng khiếp như trận này và đây cũng là lần đầu tiên phải đương đầu với chiến xa địch. Trung đoàn từ Tri Tâm lên An Lộc ngày 1/4/72 nhận chuyên trách nhiệm phía Bắc An Lộc, lo luôn "tổng tiền đồn" cho sư đoàn 5. Không đầy 48 giờ sau, quân BV mở cuộc tấn công biển người đầu tiên vào An Lộc với từng đoàn chiến xa tiến nhanh như vũ bão vào thành phố. Trước cuộc tấn công đầu, địch bắt đầu "pháo tập" (trận địa pháo) vào thành phố từ 7/4 và kéo dài liên miên trong những ngày sau đó. Trận đánh ngày 13/4, lần đầu tiên chạm chiến xa địch và đương đầu với quân số đông đảo của địch quân, binh sĩ mất tinh thần thấy rõ. 20 phút sau đứt liên lạc với bộ chỉ huy là xe tăng BV xuất hiện. Biệt Động Quân và Địa Phương Quân chịu không nổi cũng rút luôn vào thành phố. Tất cả mọi người chiến đấu được đều ra tuyến, M72 được xử dụng tối đa, cối 81 chần từng thước vuông một trên đường tiến quân địch, tùng thiết địch bỏ chạy, bộ binh BV phía sau không tiến lên được, xe tăng BV chỉ còn cách đậy nắp tiến một mình và làm bia nhắm cho M72 hủy diệt. Trận tấn công đầu thất bại, địch lui binh và tiếp tục trận địa pháo vào thành phố. Đại tá Trường, xuất thân khóa 12 Võ bị Đà Lạt, tốt nghiệp tham mưu cao cấp, bởi vậy ông rất tôn trọng nguyên tắc chỉ huy tham mưu khi cầm quân. Sau trận đánh 13/4, lính chết và bị thương được đưa lui về phía sau để đại đội 52 quân y đảm trách và khỏi làm xuống tinh thần binh sĩ. Tuy vậy, ông cho biết là sau trận tấn công thứ hai ngày 15/4 ông không còn áp dụng "cẩm nang" này nữa, An Lộc chỗ nào cũng bị pháo, người đưa về quân y cũng không săn sóc được có khi lại gia tăng tổn thất khi di chuyển. Bởi vậy ông ra lịnh đơn vị nào lo cho đơn vị ấy băng bó lấy và chôn cất tại chỗ. Qua trận 13/4/72, cấp chỉ huy cũng như binh lính có thêm kinh nghiệm đánh chiến xa và không còn "khớp" như trước. Đại tá Trường và các sĩ quan của ông thấy rõ là sẽ diệt hết chiến xa địch nếu phân tán được chiến xa và bộ binh địch, cứ mỗi đại đội bộ binh thì có 4 chiến xa địch đi kèm. Làm tan rã bộ binh, xe tăng địch sẽ dễ dàng bị hủy diệt. Bởi thế ông pháo binh "nhà nghề" Hoàng Trung Liêm được giao phó dọn 1 bãi pháo binh trên con đường địch sẽ đi qua để vào tuyến trung đoàn 8. Sau nhiều giờ nghiên cứu, Thiếu tá Liêm chọn chỗ, tập trung hỏa lực súng cối và chờ đợị Ngày 15/4/72, CSBV lại tiến vào An Lộc như lần trước với bộ binh và chiến xa, không may mắn cho họ là đã đi vào đúng "bãi pháo", bộ binh dịch chạy tán loạn và chiến xa không còn ai "tùng thiết." Xe tăng địch lại làm nước liều đậy nắp tiến lừng lững vào trung tâm thành phố, binh sĩ VNCH từ dưới hố nhảy lên phóng M72 từ sau đích xe tăng và biến cả khối thép khổng lồ thành những con "cua rang muốị" Cũng từ trận này, 1 số binh sĩ được Đại tá Trường cho xử dụng súng chống chiến xa B40, B41 tịch thu được của quân BV, chỉ cần 1 phát là chiến xa địch cháy phừng phừng, lính CSBV nhảy từ trong xe ra, da thịt cháy vàng như bị thuị Đại tá Trường nói tiếp: "Nếu bộ binh và chiến xa của tụi nó phối hợp được với nhau, An Lộc này chắc chắn đã thất thủ. Tại mặt trận này chúng tôi khôg có 1 xe tăng nào cả, chỉ có lèo tèo vài chiếc commando-car V100, nội pháo kích không cũng bị hư hạị" Kể từ trận tấn công thứ hai, 600 Biệt Cách Dù của liên đoàn 81 đã có mặt bên cạnh trung đoàn 8 ở tuyến Bắc An Lộc nên Đại tá Trường cũng nhẹ gánh phần nàọ Ông hết sức ca ngợi các chiến sĩ Biệt Cách Dù qua lời tuyên bố: "Biệt Cách Dù, cá nhân chiến đấu thuộc vào loại siêu đẳng trong quân lực tạ" Đại tá Trường run giọng khi nói đến những chiến hữu thuộc quyền ông đã vĩnh viễn ra di cho sự đứng vững của An Lộc: "Lúc đầu tôi để ý những người có công trạng, bắn hủy xe tăng địch, tôi ghi tên trong sổ tay, dần dà những người này đều tử trận, cuốn sổ chi chít tên những anh hùng hạ tăng địch, dần dà cũng dày đặc những hàng gạch đỏ xóa tên. Tôi có thằng tà lọt tên Sơn, lao công đào binh, cựu trung sĩ Nhảy Dù, theo lẽ thường thì lao công đào binh không được võ trang nhưng vì tình hình quá cấp bách, tôi cho nó M16 và rồi cả M72. Thằng Sơn chiến đấu gan dạ và bắn vào hạng lẫy lừng, một mình nó hạ mấy xe tăng địch, nhưng rồi nó cũng tử trận." Đại tá Trường cũng ca ngợi lữ đoàn 1 Nhảy Dù, cánh quân trấn giữ mặt Nam An Lộc, nhất là cú "bắt tay" thần sầu của tiểu đoàn 6 và 8 Dù ngày 8/6. Đại tá Trường tâm sự: "Đại tá Lưỡng, Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 1 Nhảy Dù tấn mặt Nam, tôi mặt Bắc, môi hở thì răng lạnh, hôm tôi bị thương ông lưỡng tới thăm và nói lúc này mà bị thương thì chết rồị Tôi kể chuyện bị địch đánh rát quá, ông Lưỡng khuyên nên biến chế mìn để chặn đường chiến xa địch. Nghe lời ông Lưỡng tôi cho chế cứ 2 đầu đạn 155 ly với ngòi nổ thành 1 quả mìn, mấy đợt tấn công sau này xe tăng CSBV bị lủng lườn hết vì mìn biến chế nàỵ" Rời trung đoàn 8 BB, chúng tôi xuống 1 con dốc, chợ An Lộc ở dưới kia, đạn pháo kích đã làm nhà lồng chợ trơ trọi những khuôn sắt cháy nám, cả 1 vùng chung quanh chợ chỉ còn những đống gạch đổ nát. Trung đoàn 8 và liên đoàn 81 Biệt Cách Dù đóng cách nhau có 1 con đường nhỏ. Từ trên 1 vọng gác của trung đoàn 8, chúng tôi trông thấy những ngôi mộ mới được sắp xếp có hàng lối ở bên cạnh ngôi chợ hiu quanh và tan tành của An Lộc, đó là nghĩa trang Biệt Cách. Địch vẫn chưa ngưng tiếng pháo, tuy vậy mấy người lính mũ xanh vẫn tiếp tục đi lượm gạch và xây vòng rào chung quanh nghĩa trang dành riêng cho anh em họ. Những người khác lúi húi dựng 1 đài kỷ niệm trước lối vào nghĩa trang. Giữa không khí kỳ quặc của thành phố chết, giữa những tiếng pháo nổ chát chúa, những hình ảnh chan chưá tình người này làm chúng tôi xúc động, và chúng tôi đã có mặt ở nghĩa trang Biệt Cách. Đài kỷ niệm cao hơn đầu người và có khắc 2 câu thơ mà sau này chúng tôi được biết là của 1 người con gái Bình Long đặt ra đề tặng các anh hùng Biệt Cách : Người thiếu nữ đó là Phạ Cô chẳng còn ai thân thích sau những ngày máu lửa ở An Lộc. Chính Pha cũng bị miểng đạn đại bác ghim vào chân. Các chiến sĩ Biệt Cách Dù đã tìm thấy cô và đưa về cho bác sĩ chữa trị ở khu phố chợ. Những buổi chiều im tiếng pháo, Pha đòi các anh em Biệt Cách Dù khiêng ra ngoài hè để nhìn cảnh Bình Long đổ nát. Những buổi chiều tiếp nốị..đến một hôm Pha bật khóc khi nghe mấy người lính mũ xanh kẻ tên các chiến hữu trên mộ bia ở nghĩa trang Biệt Cách. Tưởng rằng các dòng nước mắt đã khô cạn sau những ngày ròng rã bị "pháo tập" của CSBV, nhưng chính chiều hôm đó cô đã bật khóc và cảm đề 2 câu thơ trên chứa đựng biết bao đau thương tại An Lộc.
Trong trận chiến tháng 4/72, sự thất bại về quân sự của CSBV chắc hẳn không làm Hà Nội điên đầu cho bằng sự kiện quân "giải phóng" đi tới đâu là đồng bào ùn ùn bỏ chạy tới đó. Ghê tởm bằng kinh nghiệm của Tết Mậu Thân năm 1968 với cả ngàn thường dân bị chôn sống tại Huế, đồng bào Bình Long chạy tháo thân từ Lộc Ninh về An Lộc. Mọi người vượt lửa đạn bỏ hết tài sản, của cải tiến vào trong cõi chết để tìm sự sống, tình quân dân thắm thiết được tìm thấy ở An Lộc, không phải chỉ là sáo ngữ nhưng là sự thật. Đồng bào nuôi chiến sĩ, chến sĩ nuôi đồng bàọ Tướng Hưng thì diễn tả rõ hơn :"Lúc thì chiến sĩ đi chôn đồng bào, lúc thì đồng bào đi chôn chiến sĩ". Có 1 số người lưu lại An Lộc cho đến những giai đoạn sau cùng của cuộc chiến, có những người không chịu nổi những trận "pháo tập" kinh hoàng đã bồng bế dắt díu nhau hướng về phương Nam, vô^ số người bỏ mạng dọc hành lang máu từ An Lộc về Tân Khai qua Suối Tàu Ô tới Chơn Thành. CSBV cố công ngăn chặn đám dân chạy loạn này hầu bắt lính bổ sung các đơn vị kiệt quệ của chúng và đồng thời lưu giữ đàn bà trẻ em vì chúng biết chắc chiến sĩ VNCH không khi nào dám xả súng bắn vào đám thường dân ruột thịt dù trong đó lẫn lộn các đơn vị chính qui CSBV. Có những ngày khoảng 3000 người chạy qua Tàu Ô về tới Chơn Thành chỉ còn lại 500. Thảm kịch không ngôn ngữ nào diễn tả được, không gia đình nào toàn vẹn khi vượt qua lưới đạn ác nghiệt của CSBV để về vùng quốc giạ Chuyến đi vĩ đại nhất diễn ra vào ngày 12/6/72. Khoảng 12000 đồng bào từ An Lộc tiến về hướng Nam qua Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch đến Tân Khaị Cộng quân đã chận bắn xối xả vào họ và có chừng 2000 người đã bỏ mạng. Tuy vậy hàng ngàn người còn lại đã tìm thấy ánh sáng của tự do ở Chơn Thành. Trước khi đồng bào lên đường lúc hừng đông ở An Lộc, Đại tá Nhật,Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Long đã rưng rưng nước mắt tặng mỗi người 1 túi cơm sấy đủ ăn 1 ngàỵ Chính quyền địa phương cũng như đồng bào đều hiểu rõ những nguy hiểm chờ sẵn trên "hành lang máu" đó, nhưng biết làm cách nào khác. Khi An Lộc không còn đủ thuốc men, lương thực, và quân CSBV vẫn có thể mở các trận đánh mới gây tổn thất thảm khốc cho số thường dân đông đảo nàỵ Trong số hơn trăm đồng bào lưu lại An Lộc cho đến hoàng hôn của cuộc chiến, bà Ngô Văn Xuyến, nhủ danh Văn Thị Ngôn, đã trở thành người nổi tiếng khi những cảm xúc chân thành của bà được phát thanh trên hệ thống truyền thanh quốc gia ngày trong những ngay trong những ngày An Lộc còn bị phong tỏạ TT Thiệu, trong chuyến viếng thăm An Lộc ngày 7/7/72 cũng đã tìm gặp bà để bày tỏ sự cảm phục của ông. Bà Ngôn đã diễn tả sự đùm bọc giữa lính và dân một cách mộc mạc, nhưng lại làm se sắt lòng người hơn bất cứ 1 bài văn nào diễn tả những tình cảnh ở An Lộc. Ở An Lộc chắc hẳn có đến muôn ngàn câu chuyện bi thương, nhưng gương chiến đấu bền bĩ, sự chịu đựng đến tận cùng sức chịu đựng của con ngườị Người viết dù đã thực hiện được mộng ước lớn nhất trong đời phóng viên chiến trường là vào An Lộc để tỏ sự kính phục với tất cả những người đã giữ vững thành phố này, nhưng có lẽ đã chỉ được nhìn An Lộc dưới 1 góc cạnh đầy khiếm khuyết. Tuy vậy, điều chắc chắn và rõ ràng vẫn là An Lộc anh hùng - Bình Long anh dũng. part 1 part 2 part 3 part 4 part 5
|