1972 - An Lộc Anh Dũng


In memory of general Le Van Hung and all South Vietnamese soldiers and civilian defenders of An Loc in 1972.




(Trích trong "Mùa Hè Đỏ Lửa", bút ký chiến trường của Phan Nhật Nam)

"Anh Hưu thương,

"Thế nào, 2 chủ nhật trôi qua có nhơ lắm không ? Có thể nói từ khi anh và em cùng nhau bắt tay xây dựng vợ chồng thì 2 chủ nhật này là 2 chủ nhật khó khăn và nặng nề vượt qua lắm anh hè. Em biết lắm rồi, trong những giờ phút đó anh muốn thét lên lên thật to để làm sao em nghe những lời nói của anh, rồi cùng anh nói chuyện, rồi em cũng biết lắm những bước chân đi trong những giờ phút đó, nó như 1 con người không tri giác mà những bước đi đó không hề biết đến, không hề nhớ đến, đầu óc sẽ triền miên suy nghĩ, những cái gì gọi là kỷ niệm ở đời sẽ hiện ra và bắt đầu như diễn kịch trước mắt. Thật đúng tâm trạng của anh lúc đó em sẽ đoán được, vì sao em lại biết tài như thế ? Vì em đã nằm giữa trái tim anh, dòng máu của anh đã cùng chảy theo nhịp thở của em, cho nên dù sao, dù ở phương trời nào em đều đoán được.

"Thế nào rồi đó, chân sưng to không, bằng cái "cột đình" chưa ? Vai đã lột những lớp da bên ngoài gọi là "không đáng kể" để đổi lấy lớp thịt "hồng hà" chưa ? Có đau lắm không anh ? Có hỏi họ để tìm lám, dầu ngoại khoa mà bóp chưn, nhức lắm anh hè. Anh Hưu ơi, em biết đi đường vất vả lắm rồi đó, ăn uống khô khan như vậy có mua gì cải thiện đến không ? Trên đường đi có xảy ra đau ốm gì không ? Nghĩ đến đó em tê buốt cả người càng thêm nhớ nhung suy nghĩ, có sinh ra cái mụt nào để làm thêm đau đớn bản thân không. Vì mùa này là mùa mụt của "đồng chí" đấy phải không Thủ trưởng. 2 chữ Thủ trưởng nói cho vui vậy thôi, chứ không phải em mơ ước như vậy đâu nhé. Thật ra tâm trạng của em chỉ mơ ước rằng sao cho 3 năm nghĩa vụ xong anh được an toàn cùng về với em, em muốn nhắm măt làm sao thời gian sẽ trôi nhanh đi và nhanh đi nữa để anh và em được về sống trong 1 ngôi nhà nhỏ hẹp để cùng nhau vượt qua khó khăn, cùng nhau hưởng những hạnh phúc đẹp đẽ. Những hạnh phúc đẹp đẽ, những cái đó em nuôi 1 mơ ước, 1 mộng đẹp, chứa đựng nó trong 1 khối óc, trái tim đầy tình chung thủy của tình nghĩa vợ chồng đã nhen nhúm từ lúc đầụ Anh ơi, xa anh đi, em nhớ lắm, em thương anh lắm, anh nói, anh cười, anh trìu mến thương, anh em làm sao quên được. Có ai hiểu thấu tâm trạng của em trong những lúc nhìn vật của anh, từ nét chữ của anh viết cho em, rồi đến cái nhìn nữạ.. Chao ơi, em muốn bấu lấy mà nhìn, nhìn mãi, nhìn vui nào cho chán được. Anh Hựu ạ, nói mãi, cũng không hết nhớ nhung của em lúc này đối với anh, thôi em nói chuyện khác anh nhé..."

Trên đây là 2 trang đầu tiên của chị Nguyễn Thị Hàng, giáo viên ở Nghệ An viết gửi anh Lê Văn Hưu địa chỉ là 27100 3TB04 Trung đoàn 203 Thiết giáp, không biết rõ anh ở đơn vị nàọ Thư viết 4 trang được ghi lại 2 trang đầu không sửa 1 nét, không thêm 1 dấụ Lê Văn Hưu đã chết ngay trận đầu tiên sau 6 tháng vượt Trường Sơn vào Nam. Cái chết của Hưu không phải lỗi của chúng tôi vì chúng tôi phải tự vệ để sống còn, cũng không phải của anh Hưụ Hưu cũng muốn ở lại bên chị Hàng để "cười rúc rích với nhau", để được ăn ngô, "vườn ngô trước nhà đã được mùa".. Tội ác này là của chúng nó, lũ đồ tể tay không dính máu, tâm hồn chúng cứng ngắt bởi tin vào chủ thuyết thật tàn độc. Đó là lỗi của lũ ngạ quỷ trầm luân mang danh người và chiêu bà i cách mạng giải phóng. Chính chúng nó, thứ thiên tài chết ngập đầy oan khiên, đem chết chóc cho thế nhân...

TD 6 Du` - -Do^`i Gio' -Do^?i Te^n
2100g của ngày 19 được đánh dấu bởi quyết định của "Lê Lợi" : Tiểu đoàn 6 không còn nhiệm vụ giữ pháo nữa, chỉ còn nhiệm vụ giữ cao địạ Tiểu đoàn trưởng toàn quyền quyết định. Pháo còn nữa đâu để giữ, chưa đầy 48 giờ đã mất 6 khẩu pháp với ngàn quả đạn, bây giờ ở đây làm gì ? Dọt, Đỉnh dẫn 62 xuống đôi hướng về phía ấp Srok, nơi đang có 61 lập vị trí, để lại đồi 2 đại đội 63 và 64 cho Tiểu đoàn phó Phạm Kim Bằng trấn giữ.

Vinh còn ào xuống như núi lở, Cộng quân bung ra khép lạị Vinh tiếp tục lấn...chân đồi Gió và ấp Srok lại kẹt thêm cái suối Rộ Vinh cựa quậy khó khăn dưới đám lau -- sậy ruộng sũng nước.

    - Nó bâu tôi như đỉa, dứt không nổi anh Năm. Vinh hét với Đỉnh trong máỵ.. Tối quá chỉ có sờ ngực áo mà đánh lưỡi lê thôị..quên sờ nón sắt mà nhận bạn.

Nhưng dù Cộng quân cố chận bằng mấy lớp hàng rào người, 11 giờ đêm Vinh cũng rờ được cái ấp...nơi đại đội 61 đang trông chờ từ lúc trời chập tốị 400 m từ chân đồi đến người lính gác của đại đội 61, thành phần của tiểu đoàn 6 đi mất 3 giờ, 3 giờ thêm 1 số thương binh vì lưỡi lê và mảnh lựu đạn của 400 m cận chiến!

Bây giờ là 0 giờ của ngày 19 bước qua 20, Cộng quân không phải chỉ 1 thành phần, 1 cánh quân, nhưng là 1 lũ người, 1 lớp sóng người chen vai thích cánh, lố nhố đầy chân Đồi Gió, chân đồi phía Tây lẫn chân đồi phía Đông... Cộng quân tràn ngập đường 245 như trẩy hội, Cộng quân bao quanh ấp Srok Ton Cui như đám người đói vây quanh vị trí phát chẩn.

Không phải là 1 cuộc điều quân để chuẩn bị tác chiến, nhưng là 1 chợ người, lộn xộn ồn ào, la hét tìm đơn vị, chuyển lệnh.

    - Ngày hôm nay máy bay "ngụy" nhiều quá !

    - Sao mày không bắn !

    - Tao chỉ có AK.

    - AK thì AK bắn cho "ngụy" sợ.

Ở trong này, Đỉnh thì thầm liên lạc với các đại đội trưởng 61, 62 và 60: các toa dặn lính đừng bắn, tụi nó đi đâu cho tụi nó đi, chỉ bắn khi nào nó tấn công mình thôị "- Chúng tôi nhận hiểụ" Cả 3 đại đội trưởng đều thở dài, lấy gì bắn nữa !! Nhưng dù vô trật tự tới đâu, Cộng quân cũng tập họp lại được hàng ngũ. 3 giờ sáng tiếng kèn thúc quân vang lên lồng lộng... Xong rồi tụi nó dứt mình.

South Vietnamese paratroopers.

Tiếng kèn thúc quân xoáy trong dêm, vang dọc theo đường 245. Bỏ mẹ, nó bố quân cả 3 km đường dàị Đỉnh run tay khi nghe hiệu lịnh từ đầu đến cuối hàng quân, đồng thời từ phía Bắc đầu đường 245 có tiếng động cơ máy nổ, ánh sáng đèn pha quét ngang dọc bóng đêm, tăng T54. Cộng quân "dứt điểm" Tiểu đoàn 6 Dù không nương taỵ.. 3 giờ đúng, Đồi Gió bị tấn công trước, Tiểu đoàn phó Phạm Kim Bằng, mặt sắt đen sì, con người quá thổ, chậm rãi điềm tĩnh và hùng tráng như 1 hiệp sĩ thời cổ đứng ra khỏi hầm điều khiển 2 đại đội 63, 64 phản công. 63 của Hoàng và 64 của Tuấn, 2 đại đội đã thử lửa với CSBV từ ngày 17, 2 đại đội trưởng "tới" quá mức, dũng cảm như những thiên thần tung hoành trên đầu lũ quỷ say máụ Tất cả đều ở tuyến chiến đấu, không còn khinh binh Tổ trưởng, Trung đội trưởng, Tiểu đoàn phó... Chỉ còn 1 hàng ngang theo giao thông hào, điểm phân biệt người chỉ huy là tay nói máy chuyển lệnh, tay ném lựu đạn. 2 đại đội chỉ trừ những người chết hoặc bị thương mê man, thương binh chỉ tạm băng sơ qua vết hương, đứng hoặc dựa lưng vào thành giao thông hào để chiến đấụ 4 giờ trong bóng tối ngã màu tím của ngày sắp đến. 4 chiếc T54 chia từ 2 hướng Đông và Đông Bắc bắt đầu lên đồi, lính tùng thiết CSBV chạy lố nhố theo sau để tính bề diệt gọn.

Trăng thượng tuần gần sáng dọi ánh sáng trắng lạnh xuống sường đồi vằng vặc, khối sắt đen lóng lánh tiến dần vào cùng động cơ vang ầm ỉ, ngọn đèn vẫn giữ nguyên độ sáng ở vị thế "pha", luồng sáng dọi thẳng lên đồi hỗn xược thách thức... 2 chiếc T54 đầu tiên bò lần lần từng thước đồi dựng đứng.

"- Để tao thanh toán nó." Tuấn đứng thẳng khỏi giao thông hào, kéo chiếc ống M72 cơ hữu (trên nguyên tắc chỉ khinh binh mới có M72). Rút hết các chốt an toàn... Tách ! Sợi giây an toàn cũng đã bị đứt, Tuấn đưa chiếc hỏa tiển lên vai nheo mắt...100 thước, còn xa, 80 thước, hơi xa, 50 thước, đủ! Tuấn bị lóa bởi 2 ngọn đèn dọi thẳng mặt... Ầm ! Quả hỏa tiển đập thẳng vaò giữa 2 điểm sáng, hơi chếch cao 1 chút, trúng ngay pháo tháp...

Chiếc thứ hai tăng tốc độ hú tiếng lớn nhấc 1 cái lên tuyến phòng thủ, hạ sĩ Nhu, tiểu đội trưởng can trường không kém đại dội trưởng, nhảy vội lên pháo tháp, quả lựu đạn phát nổ sau khi Nhu vừa kịp nhảy xuống. 2 chiếc T54 của phía Đông thì do chính Hoàng và 1 binh sĩ khác hạ... Cộng quân dạt lui xuống chân đồi để đại pháo rưới thêm 1 lớp, lớp thứ 6 kể từ lúc khởi đầu trận đánh. Ngày tới với ánh sáng cùng cơn mưa pháo thứ 7, đỉnh đồi bây giờ tan hoang, điêu tàn và bốc khói, khói của đạn địch và khói của đạn ta cháy dở..."Hột lạc" dài 300 m ngang 70 m, hứng khoảng 2000 quả đạn trong 1 đêm với vị trí dã chiến, ngày chiếu ánh nắng rọi rõ cảnh vật tan nát...

Tiểu đoàn phó Bằng bị "tung" 1 mắt. Tuấn hứng 1 quả 75 ly, quả đạn nổ ngay trên thân thể người sĩ quan trẻ mới 23 tuổi -- số tuổi quá nhỏ đem so với chiến trường nặng độ. Đồi Gió kể từ đó mang tên mới: Đồi "Quốc Tuấn," danh hiệu truyền tin của Tuấn, Cao Quốc Tuấn.

Với 1 con mắt đẫm máu, Bằng nghiến răng, nhướng mắt còn lại giữ vững đồi cho đến lượt tấn công thứ 16. 12 giờ trưa ngày 20, Bằng kiệt lực xuôi tay bỏ rơi chiếc combiné, gọi Hoàng đến: "Thay moa đem 2 dại đội vê^` 169 (Tây Nam Đồi Quốc Tuấn với 1 cái "yên ngựa" chập chùng trên 2 km đường rừng rậm). Nhớ đem hết thương binh, kẻ chết phải chôn lạị..

An Lo^.c - chie^'n tru*o*`g tha'ch
ddo^' cu?a pho'ng vie^n
Sau đây, dưới hình thức ký sự của 1 phái viên VTVN đã đặt chân hơn 1 lần vào An Lộc trong những ngày còn lửa đạn, người đọc sẽ được dẫn dắt vào thành phố đổ nát An Lộc, sống vài giây phút với những người dân, người lính đã cố thủ An Lộc.

Công việc của 1 phóng viên là trung thực ghi nhận mọi sự kiện xảy ra trong đời sống thời sự. Trên 1 khía cạnh nào đó người phóng viên như 1 chứng nhân dự phần vào những diễn biến luôn luôn làm cho thế giới biến đổi không ngừng.

Với tư cách của 1 phái viên Vô Tuyến Việt Nam, tôi tới An Lộc ngày 13/6/72 khi thị trấn này bước vào ngay tử thủ thứ 68. Nhiệm vụ của tôi, tương tự như các phái viên VTVN ở các mặt trận khác, là tường trình qua hệ thống liên lạc siêu tần số, những sự thật đã và đang diễn ra tại các địa điểm mà chúng tôi có mặt.

Tôi đặc trách mặt trận Bình Long và chiến trường An Lộc, thực sự như 1 thách đố đối với cá nhân tôi cũng như nhiều người khác đã từng tìm cách vào An Lộc. Chuyến đi của tôi khởi sự vào trung tuần tháng 4/72 và tôi đã chỉ có thể hoàn tất 2 tháng sau đó, tức vào ngày 13/6/72. Trong 2 tháng trời ròng rã này, mỗi lần khởi hành đều kéo theo 1 thất bại cho riêng tôi và cả các anh em khác đi cùng. Có những người bị thương, có những kỷ niệm chua sót nhưng đau đơn hơn là cả cái chết của cố phóng viên điện ảnh, thiếu úy Nguyễn Ngọc Bình.

Một tuần lễ chờ đợi, lên trực thăng rồi lại xuống trực thăng, ăn chực nằm chờ dưới những cơn lốc cát nóng bỏng ở phi trường Lai Khê, Bình Dương, ngày 29/4/72, chúng tôi khởi sự cuộc hành trình phiêu lưu vào An Lộc, thời gian này An Lộc bước vào ngày tử thủ thứ 22, áp lực địch đang lúc mạnh và quân CSBV tạo được 1 lưới lửa phòng không suốt dọc phi trình vào thành phố anh hùng nàỵ

Trong ngày này chúng tôi không tới được mục tiêu, trực thăng chở chúng tôi bị bắn như mưa cho khi tới đồn điền Xa Cam. Tại đây địch quân pháo kích hàng loạt vào bãi đáp, các phi công quyết định bay trở về. Trên cao độ hơn ngọn cây ở Xa Cam, chúng tôi nhìn thấy hàng trăm thương bình đang chờ đợi được di tản về Lai Khê, có những người nằm trên băng ca, có những người chạy tán loạn dưới những tiếng nổ chát chúa cát bụi mịt mờ của đạn pháo kích. Họ chạy theo hướng trực thăng đến như muốn bấu víu vào những hy vọng cuối cùng của sự sống.

Chúng tôi cảm thông tình cảnh này vì chính mắt tôi trông thấy những thương binh ở Lai Khê, những người còn đi lại được; những vết thương đã có dòi và những ký sinh trùng ghê tởm này đã rớt vương vãi khi anh em từ trên trực thăng tản thương bước xuống.

Đợt trực thăng hôm đó, không có 1 thương binh nào về tới Lai Khê vì các phi công không thể hạ tàu giữa cơn mưa pháo kích của địch quân. Trên đường về, địch cũng bắn rát như khi chúng tôi tới, 1 trong các loạt đạn của địch đã khiến chiếc trực thăng chở chúng tôi không còn điều khiển được và phi công đã hạ khẩn cấp xuống 1 bãi trống chính giữa 1 khu rừng rậm ở phía Nam đồn điền Xa Cam. Trong những khoảnh khắc kinh hoàng, 1 trực thăng Gunship yểm trợ đã đáp xuống khu đất này để cứu sống tất cả chúng tôi gồm 4 nhân viên phì hành và 4 phóng viên chiến trường.

Ngày 1/5/72, trong 1 chuyến đi tương tự, điện ảnh viên Nguyễn Ngọc Bình đã giã từ ống kính khi trực thăng chở anh nổ tung vì đạn B40 của Cộng quân. Vào khoảng thời gian này, dày đặc trong các khu rừng cao su, Cộng quân trí các ổ đại bác phòng không bắn bằng radar, các hỏa tiển địa không phóng tay cũng như các ổ đại liên khạc đạn không ngừng. Bởi vậy, các phi công ta đã phải liều lĩnh bay sát trên đầu ngọn cây để vô hiệu hóa khả năng phòng không địch điều khiển bằng "mắt thần", tuy nhiên khi bay thấp, phi cơ ta phải chấp nhận đạn súng nhỏ và ngay cả đạn chống chiến xa B40 của địch, bắn từ những tên Cộng quân bị cột người trên các ngọn câỵ Sau đây là 1 lời tường thuật của 1 người đã có mặt tại vùng này:

"Theo tôi biết thì Phòng 3 và Phòng 5/Bộ Tư Lệnh QK3 trước 75 có những tấm hình này vì anh em trong Phòng 5/SĐ5/BB có chụp. Chẳng những lính xe tăng bị xiềng chân mà cả những tên đặc công bắn sẻ cũng bị xiềng chân trên các nhánh cây cao su vì, theo lời khai các tên đặc công -- đa số là người miền Nam -- đã bị QLVNCH bắt thì, nếu không bị xiềng chân, chẳng có bao nhiêu tên đặc công VC dám ăn dầm nằm dề trên những nhánh cây cao su để theo dõi và bắn sẻ theo lệnh của bọn cán bộ BV. Lính của Tiểu đoàn 33 thuộc Liên đoàn Dù của tôi đã bắn chết một tên đặc công VC trên cây cao sụ Hắn chết treo tòn teng, phải bắt thang lên hạ xác hắn xuống. Tui được gọi ra Tiểu đoàn Dù 33 trên Đồi Gió chụp hình. Hồi đó, chụp xong rửa hình là giao cho Trưởn Phòng 5 (Chiến tranh Chánh trị) hết. Đâu có dè có ngày mình cần nó mà giữ lại vì... nhiều tấm hình mà tôi đã chụp được tại An Lộc nhìn qua rợn người".

Sau chuyến đi thất bại ngày 29/4/72, chúng tôi vẫn trong tình trạng chờ đợi và tiếp tục 1 vài lần "phiêu lưu" nữa không phải bằng trực thăng nhưng bằng con đường máu mệnh danh bằng con dường xui xẻo 13 (quốc lộ 13). Ngày lại ngày, đoạn đường Lai Châu - Chơn Thành trở nên quen thuộc với chúng tôi, nhưng hết tuần lễ này đến tuần lễ khác chúng tôi không có cơ hội để vào An Lộc bằng đường bộ. Địa điểm xa nhất mà chúng tôi đạt tới chỉ là suối Tàu Ô, con suối tử thần đã cầm chân đoàn quân khai thông quốc lộ hơn 2 tháng trời và vẫn còn tiếp tục cho tới sau ngày tôi vào được An Lộc và trở rạ

Trên đọan đường ngắn ngủi này, chúng tôi lại gánh chịu những kỷ niệm đau thương mới, khi theo chân đoàn chiến xa của chi đoàn 1/20 đi khai thông quốc lộ. Đức Tài, biệt danh của ông Đại úy chi đoàn trưởng 1/20, không phải là 1 xa lạ gì với các phóng viên chiến trường. Đức tài từng là anh hùng thiết giáp trên chiến trường Kampuchiạ Ngày 24 xuất trận tại Lai Khê, Đức Tài đã ôn lại kỷ niệm cũ với nhóm phóng viên chiến trường và chính anh đã đãi chúng tôi bữa hủ tiếu sau cùng ở câu lạc bộ sư đoàn 5.

Sáng 24, Đức Tài dẫn mấy chục con "cua sắt" đến Chơn Thành để từ đây anh tham gia măt trận Bình Long. Gặp nhau tại Bộ chỉ huy tiền phương trung đoàn 32 ở phía Bắc Chơn Thành, Đức Tài còn đưa 2 gnón tay thành hình chữ V làm dấu hiệu chiến thắng khi leo lên chiếc M113 để dắt đoàn cua sắt M41 tiến và tử địạ

Hai người trong nhóm chúng tôi là Lê Thiệp và Dương Phục định leo lên xe Đức Tài để đi cùng, không hiểu sao lúc đó tôi lại cản và nói: "Đi theo sau tiện hơn." Đức Tài dẫn đoàn xe đi, chúng tôi dồn cục lên 1 chiếc xe Jeep theo sát chiếc M41 sau cùng. Đoàn xe mới chạy chừng 5 phút, chúng tôi nghe những tiếng đạn pháo kích và tiếng súng liên thanh nổ rền. Mỹ voi, điện ảnh viên quân đội, lao vội chiếc xe xuống lề đường, la lớn: "Xuống hết đi tụi bay, đụng rồị"

Hai phut' sau, khi chúng tôi chạy lên chỗ 1 chiếc xe M41 đang nhả đạn 76 ly vào bìa rừng thì người trưởng xa leo lên pháo tháp la thất thanh: "Đức Tài bị rồi, hỏa tiển 122 ly pháo trúng xẹ" Đoàn chiến xa bị chặn lại tại đây và 1 phi tuần A1 tới thả bom 2 bên bờ rừng. Chúng tôi trở về trung đoàn 32 để nhìn mặt Đức Tài lần cuốị 2 người lính khác cũng hy sinh với Đức Tàị

Cái chết ở mặt trận này đến thật mau lẹ, chỉ mấy phút sau khi làm dấu hiệu chiến thắng hình chữ V, Đức Tài đã vĩnh viễn ra đi trong sự ngơ ngác bi thảm của cả đoàn quân vừa khởi sự tham gia mặt trận Bình Long không đầy nửa tiếng đồng hồ.

An Lo^.c -di.a su*? ghi chie^'n ti'ch...

Sau bao nhiêu lần đi, bao nhiêu trắc trở, tôi vẫn định bụng là sẽ phải vào An Lộc để nhìn thấy tận mắt thị trấn anh hùng này, nhìn thấy tận mắt sự tàn phá khủng khiếp vô lý của chiến tranh. Để được thấy, chứ không phải nghe nói về sức chịu đựng và những biểu tượng về tinh thần chiến đấu vô biên của tất cả những người đã giữ vững An Lộc, cho dù thành phố này không còn là 1 thành phố nữạ Ngày 13/6/72, toán phóng viên lại lên đường. Ngoài tôi còn có Đại úy Ngguyễn Văn Quí, sĩ quan báo chí sư đoàn 5. Dương Phục, Đài tiếng nói Quân đội, Anh Thuần của báo Tiền Tuyến, Tam Phong Slao Quắn của sư đoàn 5 và Hébert thuộc hệ thống truyền thanh truyền hình của Canadạ Người phóng viên quốc tế này đã bị tử thương ngày 23/7/72 lúc theo dõi chiến trận Quảng Trị sau khi An Lộc được giải tỏạ Tất cả chúng tôi được ngồi chung trên 1 trực thăng UH trong 1 đợt đổ quân của tiểu đoàn 2/31 củ sư đoàn 21 BB tăng viện cho mặt trận An Lộc.

South Vietnamese soldiers defending Quan Loi air field, three kilometers to the east of An Loc

Vào khoảng thời gian này, phòng không địch không còn mạnh mẽ như những chuyến đi trước của chúng tôi vào 2 tháng 4 và 5. Các phi công ghi nhận là quân CSBV chỉ còn 1 ổ đại bác 37 ở phía Bắc Tân Khai và 1 số ít đại liên dọc theo các rừng cao su mà thôị Đoàn trực thăng 5 chiếc "lao" xuống Xa Cam lúc 11 giờ sáng và ngay khi chân vừa chạm đất chúng tôi bắt đầu nghe những tiếng xé gió và những tiếng nổ chát chúa, địch bắt đầu pháo kích theo như thói quen thường lệ, mỗi khi nghe tiếng động cơ trực thăng vọng về. Đã có nhiều kinh nghiệm tại mặt trận này, tất cả chúng tôi, không ai bảo ai chạy túa vào 2 bên rừng cao su và lao mình xuống những hố đạn cũ gần nhất. Địch ngưng pháo sau chừng 15 trái đạn, đây là các ụ súng của ta bị địch chiếm ở phía Đồi Gió, trong những ngày đầu chiến trận.

Dứt tiếng pháo, chúng tôi chạy theo 2 ven rừng cao su; phía trước là các toán quân vừa được trực thăng vận tới, họ di hành theo đội hình hàng dọc, nhiệm vụ của họ là tới An Lộc và từ đó tăng cường các cánh quân tảo thanh địch quân ở vòng đai tỉnh lỵ

Được chừng hơn 100 m, Đại úy Quí bắt đầu kiểm điểm "quân số" trong toán chúng tôi, thiếu mất ông phó nháy Slao Quắn và phóng viên Tiếng nói Quân đội Dương Phục. Chúng tôi quyết định tìm chỗ núp để chờ. Có lẽ Slao Quắn và Dương Phục chạy qua phía rừng bên kia khi Cộng quân pháo kích bãi đáp. Một lát sau họ bắt kịp chúng tôi tại tấm bảng xi măng "Plantation de Xacam."

Dương Phục thở hổn hển, đất đỏ Bình Long nhuộm mồ hôi tạo cho gương mặt hắn 1 màu kỳ dị. Hắn cho biết trong lúc chạy pháo kích, cái túi đeo của hắn văng mất và sức ép của tiếng nổ lẫn cánh quạt trực thăng đã làm những đồ vật trong túi bay như bươm bướm. Dương Phục mất hết các vật dụng riêng của hắn ngoại trừ tìm lại được xác cái máy cassette đã trở thành vô dụng.

Đoạn đường từ Xa Cam vào An Lộc chỉ hơn cây số nhưng tôi đã có cảm tưởng là đã vượt đoạn đường di hành dài mấy chục cây số. Có lúc tôi định quẳng cái ba lô cho nhẹ và cũng để nhảy xuống hố tránh pháo dễ dàng. Tuy nhiên khi nghĩ tới mấy vật dụng cần thiết và mấy túi lương khô, tôi đã cố gắng đeo cái túi càng ngày càng nặng chĩu này để đi "bắt tay" Tướng Hưng.

An Lộc đã vào trong tầm mắt thì vừa lúc chúng tôi nhận ra 1 thương binh mặc quần áo rằn ri, đang rên rỉ bên cạnh xác chiếc T54 cháy nám đã bắt đầu rỉ sét. Máu nhuộm đỏ thân mình, người thương binh dơ cánh tay yếu ớt về phía chúng tôi rồi chỉ vào miệng anh, có lẽ anh đang trải qua cơn hát cháy cổ của những người bị thương mất máụ Cùng lúc này địch lại pháo mấy trái đạn, tiếng rít gió nghe lạnh mình, những tiếng nổ chát chúa, tiếng cành cao su gẫy rào rào, trái đạn đã vào trong bờ rừng.

Có tiếng ai gọi lớn :"Chạy mau đi, thoát khỏi chỗ này", tất cả chúng tôi cắm đầu chạy như bay về phía trước, nhiều xác T54 rải rác, 1 chiếc xe be vàng chói đầy vết đạn pháo kích nằm vắt ngang con dốc. Đại úy Quí quay lại nói: "Toàn vết pháo mới, chạy mau đị" Người ta gọi con dốc có chiếc xe be là khúc quanh tử thần, vì chỉ riêng tại nơi này hơn 200 thương binh và những người được phép di tản đã chết vì đạn pháo kích trên đường đón trực thăng ở bãi đáp. Hình ảnh người thương binh vẫy tay xin nước ám ảnh tôi suốt hành trình vào An Lộc và có lẽ cả quãng đời còn lại sau nàỵ Toán quân đi trước và cả toán chúng tôi đã không giúp gì được cho anh ta, dù muốn dù không đó cũng là điều "không nên, không phải".

Leo hết con dốc tử thần là bắt đầu vào An Lộc, 1 tấm bảng xanh lỗ chỗ vết đạn với hàng chữ "Chiều bắt buộc cho xe dân sự vào châu thành", đầu đường là 1 bót gác vách đá lố nhố thương binh. Họ đang chờ giờ ra bãi đáp trực thăng, quần áo mọi người nhuộm 1 màu nâu đỏ đặc biệt, đó là màu đất Bình Long.

Đồng hồ chỉ 11 giờ 20, thế là chúng tôi chạy trong 20 phút từ bãi đáp Xa Cam vào An Lộc. Càng vào sâu, cảnh điêu tàn càng hiện rõ, trên con đường chúng tôi đi không 1 thước vuông đất nào không ghi lại những vết tích của chiến tranh. Từ xa hướng về, không một ngôi nhà nào nguyên vẹn, những mái nhà sụp đổ, thân tường nghiêng ngả lỗ chỗ vết miểng, những cột đèn siêu vẹo, dây điện đứt tứ tung và điểm thể hiện duy nhất cho sự kiện An Lộc chiến đấu cô đơn chính là những cánh dù tiếp tế phủ đầy mặt lộ.

Sừng sững giữa khung cảnh hoang tàn, 1 bức tượng chiến sĩ tiến lên đập ngay vào tầm mắt những ai tiến vào An Lộc. Thật là kỳ lạ, bức tượng này đã đứng vững trong hơn 2 tháng trời An Lộc bị pháo kích tổng cộng gần 200,000 trái đạn.

Tiểu khu ở phía tay mặt con đường, Đại úy Quí đã từng vào An Lộc trong những ngày chiến trận thảm khốc hồi tháng 5. Ông nói :"Các anh cứ di theo tôi coi chừng lạc". Đi chừng hơn 100 m, chúng tôi trông thấy 1 dinh thự 2 tầng đã sụp đổ phần trên, đó là Tòa hành chánh Bình Long, những hàng chữ bảng xi măng đúc không còn nguyên vẹn.

Mùi xú uế nồng nặc đến lợm giọng. 1 thứ mùi đặc biệt của thịt người và thú vật đã sình thốị Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng nằm phía sau Tòa Hành chánh. Những dãy nhà mất mái, đổ tường, hầm của của Tướng Hưng ở phía dưới 1 trong những căn nhà nàỵ

Chúng tôi bước vào 1 lối đi nhỏ hẹp, đó là đường dẫn xuống trung tâm hành quân của Tướng tử thủ Lê Văn Hưng, Tư lịnh mặt trận Bình Long. Căn hầm tù mù, 1 ngọn đèn duy nhất chừng 45 nên chỉ mang lại 1 chút ánh sáng vàng vọt, không đọc nổi 1 bức thự Sau này, chúng tôi dược biết Tướng Hưng chuẩn bị cho những ngày phong tỏa kéo dài, ông có 3 máy điện riêng nhưng nhất quyết chỉ xử dụng 1 máy, công suất của máy chỉ đủ dùng cho hệ thống siêu tần số và các máy liên lạc, còn thừa lại là ánh đèn khô héo trong hầm chỉ huỵ

Tướng Hưng tự hạn chế mọi tiện nghi riêng để dành cho sự sống còn của Bình Long. Nếu không còn mạch điện cung cấp cho hệ thống liên lạc thì An Lộc sẽ thất thủ tức khắc. Ngoài căn hầm nhỏ dành riêng cho ông và nơi này chỉ được thắp sáng khi cần, bằng pin Magnésium với bóng dèn xe đạp.

Tướng Hưng chỉ xử dụng 1 máy phát điện, 2 máy còn lại phải phòng hờ trường hợp đán pháo kích làm hư hạị Hơn nữa, mức dự trữ nhiên liệu luôn luôn chỉ đủ cho thời gian 1 tuần lễ. Theo lời yêu cầu của Tướng Hưng, quân đoàn có cho thả dù các phuy xăng nhưng trong 10 thùng khi chạm đất đã phát nổ đến 9. Có những ngày Tướng Hưng phải ra lịnh đi mót xăng từ các xác xe cộ năm rải rác trong thành phố. Nhiều người đã chết trong công tác bề ngoài rất tầm thường này, nhưng thực ra chính là sự hy sinh đầy ý nghĩa cho sự đứng vững của An Lộc trong hơn 2 tháng trời khói lửạ

(còn tiếp) part 1 part 2 part 3 part 4 part 5

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

Web page created by Jennifer W. Nguyen